Nhất quỉ, nhì ma, thứ ba…ngũ quỉ!
Lũ chúng tôi gồm năm đứa, từ năm trường Tiểu học khác nhau của thành phố cao nguyên sương mù Dalat nhút nhát, ngập ngừng bước qua cổng trường Bùi thị Xuân một sớm nắng ấm, gió nhẹ thổi hiu hiu…… Hôm ấy, ngày khai trường!
Chúng tôi, vì nhỏ con (so với các bạn ngồi cuối lớp, thấp hơn hẳn một cái đầu) nên chiếm lĩnh hai dãy bàn đầu, gần bục giảng. Riêng tôi, ngồi ngay đầu bàn dãy trong, nhìn lên bàn Giáo sư. Tình thân bắt đầu từ đây, và tai họa cũng bắt đầu từ đây! Tôi còn nhớ, sau hôm đầu làm quen với Giáo sư chủ nhiệm, chép bảng Nội quy nhà trường, bầu Trưởng lớp, Thủ quỉ, Trưởng ban kỹ luật, bích báo, văn nghệ, học tập vv…và vv…… Buổi học thứ hai, giờ đầu tiên với Giáo sư Chủ nhiệm, môn Vạn Vật. Đề bài được Cô viết lên bảng: Môn học: Động vật, bài học: Con khỉ. Sau đó, Cô quay xuống hỏi cả lớp: “Con khỉ có bao nhiêu cái răng?”. Không một tiếng động, không một cánh tay giơ lên. Tôi là người bị gọi đầu tiên! Nghĩ rằng khỉ là thủy tổ loài người, mà thường vẫn nghe nói người ta có 32 cái răng, tôi rụt rè lên tiếng : “Dạ thưa Cô, con khỉ có 32 cái răng.” Sau một tiếng thở dài nhẹ như gió thoảng, Cô gọi người bạn kế bên tôi. Và lần lượt, từ 32, đến 34, rồi 36 cái răng, bốn bàn đầu đều bị đứng chào cờ, và sau đó lãnh mỗi người 01 điểm! Hỡi ơi, dầu gì cũng là học sinh lãnh phần thưởng danh dự của trường Tiểu học Tây Hồ, vậy mà ngay giờ học đầu tiên đã phải chống gậy!!! Chưa hết, điểm 01 này còn kéo tôi xuống đến thứ hạng dưới trung bình của lớp, vì môn Vạn vật hệ số hai. Thế là cuối tháng đó, khi đem Thông tín bạ (sổ điểm hàng tháng) về nhà, tôi biết thân, leo lên giường nằm sẵn với cây chổi lông gà đặt kế bên! Tôi chưa nói rõ cho quí vị biết là Ba tôi rất thương con, luôn giúp đỡ, khuyến khích chị em tôi trong việc học.
Muốn sách vở gì Ba tôi cũng tìm mua hoặc mượn cho bằng được để chúng tôi đủ tài liệu học và tham khảo. Nhưng không bao giờ chúng tôi được phép sụt xuống dưới hàng thứ năm trong lớp. “Đồng bệnh tương lân”! Thế là chúng tôi năm đứa kết bạn cùng nhau, giờ học, giờ chơi gì cũng có nhau, và ganh đua (trong tinh thần học hỏi) trong thứ hạng xếp trong lớp. Tình thân phát triển theo ngày tháng, một đứa nghỉ học là bốn đứa còn lại buồn bã, băn khoăn, chỉ mong cho mau hết giờ để đến nhà thăm hỏi. Giờ Thể dục, giờ ra chơi, đi về chúng tôi luôn có nhau, nên trong trường ai cũng gọi “Nguõ long công chúa”! Riêng bọn chúng tôi tự đặt cho mình hỗn danh Nguõ quỉ; vì hơn ai hết, chúng tôi tự biết
mình nghịch ngầm. Như Tâm, đứa bạn ngồi đầu bàn (khoảng đường đi giữa lớp), nổi tiếng học giỏi và ngoan hiền, một hôm đặt trái cam ngay trên bàn, làm Giáo sư môn Công dân giáo dục phải nuốt nước miếng liên tục trong lúc giảng bài! Hay một buổi chiều mưa phùn bay lất phất, lớp chúng tôi đóng cửa, tắt đèn, rồi Phụng lên đứng trên bục giảng. Giáo sư mới về trường, dạy môn Văn hôm đó, đi ngang, thấy bóng người trên bục giảng (vì cửa có màn che) tưởng là lộn lớp nên đi luôn.
Một lát sau, Cô Tổng giám thị đi cùng Giáo sư Văn vào lớp, giới thiệu Giáo sư với lớp. Lúc đó, lớp thật là ngoan, gần ba mươi nữ sinh đứng thẳng, im lặng, chăm chú ngó lên bảng (ngoan nhất là hai bàn đầu!?). Cô Tổng giám thị nhìn qua chúng tôi, một cái nhìn dò hỏi, rồi đi ra, nhường lớp cho Giáo sư Văn. Hơn ai hết, Cô biết rõ lũ quỉ chúng tôi; và chúng tôi cũng không sợ ai bằng Cô. Rồi trong giờ Thể dục, vì Thầy dạy thấp người, nên Yến (một trong ngủ quỉ) cứ giả bộ đến gần hỏi Thầy điều này điều nọ, đứng nhón chân, cốt ý cho cao bằng Thầy. Bốn đứa tôi, quay mặt cười khúc khích. Sau đó, không hiểu ai méc lại, mà Cô Tổng Giám thị gọi năm đứa lên khiển trách, và giờ Thể dục sau, Thầy bắt chúng tôi chạy ba vòng sân sau trường! (Eo ơi, một vòng là khoảng gần 1km!). Và chúng tôi, từ đó không dám phá trong giờ Thể dục nữa. (Tôi xin mở một ngoặc đơn ở đây để cám ơn Mẹ tôi, người lúc nào cũng bắt chúng tôi ăn no, mặc ấm trước khi bước ra khỏi nhà. Nhờ vậy mà tôi mới hoàn thành ba vòng chạy quanh sân trường Bùi thị Xuân một cách mỹ mãn.)
Những ngày đầu năm học Đệ thất, từ Tiểu học lên bậc Trung học, phải mặc áo dài khi đi học quả là một cực hình đối với chúng tôi. Nào là khi ngồi phải nhẹ nhàng vén tà áo phía sau phủ lên phía trước đùi để giữ áo khỏi nhăn, nào là đi đứng phải khoan thai, không được chạy nhảy lung tung, nào là tóc phải thắt bím hai bên cột nơ màu cho đẹp, nếu không cũng phải cột nhỏng thành đuôi ngựa cột nơ, không được để xỏa, vướng víu trong giờ học, nào là vv… và vv…… Ngũ quỉ nhà không gần nhau, một đứa ở Phan Đình Phùng, một đứa đường Duy Tân, một đứa Hoàng Diệu, một đứa ở Trại Hầm, còn nhà tôi mãi tận
Chi Lăng, (vì Ba tôi lúc ấy công tác tại Trường Võ Bị Quốc gia Dalat). Nhưng bao giờ cũng bước vào cổng trường cùng một lúc. Ai đến trước phải đợi. Có những hôm trời lạnh cóng tay, mũi cứ đỏ lên, vậy mà chúng tôi cũng đứng co ro dưới cổng trường, cặp ôm ngang ngực che lạnh, đợi đủ túc số mới vào lớp. Hay những ngày trời mưa ướt át, núp dưới mái hiên nhà Ông Cai trường, ngóng ra cổng, chờ những đứa bạn thân. Những giờ ra chơi, hay không có lớp, chúng tôi thường kéo nhau ra sân sau ôn bài, tán gẫu, hoặc vào nhà Ông Cai nhấm nháp kẹo bánh. Cũng có những hôm, chúng tôi đem theo vợt và trái cầu lông để chơi, hoặc cột túm hai vạt áo dài, xé tập làm kiện đá như con trai! Ôi! Kỷ niệm thưở học trò, nói làm sao cho hết!
Thắm thoát mà chúng tôi đã hết những năm Trung học Đệ nhất cấp.
Tình thân giữa ngủ quỉ bắt đầu lung lay khi hai đứa, tôi và Ngọc, ghi tên theo ban B (ban Toán), Tâm và Yến thì học ban A (Lý hóa, Vạn vật), còn Phụng chọn ban C (ban Văn chương, sinh ngữ). Tuy cũng cùng dưới mái trường, nhưng chúng tôi linh cảm rồi sẽ phải rời xa vì những giờ học khác nhau. Thiên bất dung gian, cả trường chỉ có hai đứa tôi ghi tên học ban B, nên năm đó, nhà trường gởi chúng tôi sang học bên trường Nam Trần Hưng Đạo! Cứ nghĩ đến hơn một ngàn cặp mắt nhìn mình những hôm thứ hai chào cờ, đi ra đi vào chỉ có hai “cánh hoa” lạc giữa “rừng gươm”, tôi không đủ can đảm, nên xin rút tên sang ban A. Nhưng hai lớp A đã đủ sỉ số, nên tôi đành phải bước vào lớp C cùng với Phụng! Ngọc gan hơn tôi, vẫn tiếp tục giữ vững ý chí theo học ban Toán. Từ ngày sang trường Nam, chúng tôi không còn được tin tức gì của Ngọc nữa. Sau 30/4/1975, có tin cho biết Ngọc đã sang định cư tại Cali. Bây giờ, ngủ quỉ chỉ còn lại tứ quỉ! Và một biến cố nữa xảy đến, làm chúng tôi tan đàn, rã đám!!! Số là bên trường Nam Trung học Trần Hưng Đạo, chỉ có mười nam sinh ghi tên theo học ban C, thế là nhà trường gởi sang trường Nữ Bùi thị Xuân. Hôm đầu tiên ,mười vị khách đến lớp, trông sao mà hiền lành, nhút nhát lạ! Vị nào cũng áo chemise trắng, áo lạnh xanh, quần màu xanh sẫm, giày đen, tay xách cặp, đi với nhau, cứ như là sợ tách rời là sẽ bị lũcon gái ăn thịt???!!! Trước khi Cô Tổng Giám thị dắt bọn nam sinh vào lớp, Giáo sư chủ nhiệm đã thông báo cho chúng tôi biết ngay từ đầu buổi học, và quí vị cóbiết chuyện gì xảy ra sau đó?! Hết giờ học đầu, chúng tôi tự động kéo bàn sát lại nhau, sát lên phía bục giảng, chỉ chừa hai dãy bàn dưới trống trơn, trơ trọi, ý là để dành cho bọn con trai. Khi Cô Tổng Giám thị dẫn lũ nam sinh vào lớp, chúng tôibiết Cô đã phải nhịn cười, làm mặt giận, bắt chúng tôi kê bàn ghế lại bình thường.
Tuần lễ đầu trôi qua êm ả, mười “cánh gươm” hiền như mười con mèo con bị bao vây giữa ngàn “cánh hoa rừng”! Chỉ có một tai nạn nho nhỏ (hay đúng hơn là tai họa cho riêng tôi!), trong mười vị anh hùng đó có một vị trùng tên với tôi, chỉ khác chữ lót. Thế là vài hôm sau, có tên nào tinh nghịch đã viết lên bảng mấy câu thơ :
Nga nga lưỡng nga nga,
Lơ lững giữa trời xa
Cùng nhìn về một phía,
Nga nga hỡi nga nga…
Tôi đâm ra ghét cay ghét đắng anh chàng tên Hoàng Nga, dù anh chàng cũng thuộc loại con nhà giàu, học khá, sáng sủa, đẹp trai! (Sau này, tôi còn được biết anh chàng là anh của nhỏ bạn học cùng lớp với em tôi). Nhưng chỉ sau một tuần dọ dẫm tình hình, mười tay quái kiệt bắt đầu trổ tài! Lớp tôi bầu lại Ban chấp hành, và phần lớn các “chức vụ” đều lọt vào tay các đấng nam nhi, chỉ có Trưởng lớp, Thủ quỉ và Trưởng ban Học tập là còn thuộc phe kẹp tóc. Tôi và Phụng tức ấm ức, vì không hiểu sao các bạn trong lớp lại để cho phe địch giành thắng lợi?!
Tai họa vẫn chưa hết đâu quí vị ạ! Nàng nào đứng trò chuyện với các vị mày râu giờ ra chơi trong sân trường là bị Cô Tổng Giám thị gọi lên văn phòng cảnh cáo ngay! Còn những hoa pensée, vài viên kẹo, vài cái bánh vẫn thường lén lút xuất hiện trong hộc bàn các nàng từ những bàn tay vô danh!!! Rồi tờ bích báo đầu tiên của lớp được hình thành. Đây cũng là công của anh chàng trưởng ban bích báo lớp. Người hùng còn thừa thắng xông lên, tuyên bố mỗi tháng sẽ ra một tờ bích báo. Kể về hình thức, phải nói là tuyệt hảo (dĩ nhiên là xét về mặt học trò thôi!) vì trong mười chàng, có một chàng “hoa tay thảo những nét”, tựa bài và hình vẽ minh họa rất đẹp. Cũng như tên của tờ bích báo, hai chữ Tiến lên được ghép từ những mảnh thủy tinh, phản chiếu ánh sáng đủ màu trông rất đẹp mắt.
Và hôm ăn mừng sự thành công của tờ bích báo cũng là một thảm họa, thưa quí vị! Giờ nghỉ, anh chàng Trưởng ban bích báo dắt toàn bộ ban biên tập ra nhà Ông Cai trường, đải mỗi người một tô bún riêu. Là thủ quỉ của lớp, tôi phải đi theo để chi tiền. Vả lại, tôi cũng có bài đóng góp trên trang bích báo, dĩ nhiên cũng nằm trong danh sách được mời. Vì số khách đông ngoài dự tính (Bà Caitrường hôm đó chắc trúng mối) nên bữa ăn được dọn ra hơi trễ. Đã sang giờ học khác, tôi định trở lại lớp (vì dù sao tôi cũng là một trong những học sinh giỏi, gương mẫu của lớp!), nhưng mọi người níu lại với đủ mọi lý do, nào là không sao đâu, giờ này của Giáo sư chủ nhiệm, Cô sẽ thông cảm, không phạt đâu, nào là tôiđi rồi lấy ai chi tiền, nào là vv và vv…… Nghe xuôi tai; hơn nữa, bún riêu là món tôi thích, mà Mẹ tôi (người miền Nam) không bao giờ nấu, tôi ở nán lại! Tiệc đang nửa chừng, không hiểu ai méc, Cô Tổng Giám thị xuống bắt quả tang toàn bộ banbiên tập bích báo Đệ tam C đang sì sà, sì sụp mỗi người một tô bún riêu. Cô ralệnh về lớp ngay (dĩ nhiên là sau khi thanh toán sòng phẳng với Bà cai). Về đếnlớp, cả bọn bị phạt quì lên ghế từ đó đến cuối giờ (Ôi, hình phạt thật dã man!).
Cũng may là Giáo sư chủ nhiệm không cho giờ cấm túc, cũng không ghi trong Họcbạ, vì tờ Bích báo lần đó được xếp nhất trường! Hú vía! Từ đó, Phụng giữ riết lấytôi không rời nửa bước, để tránh “tình trạng dại dột, nghe lời đường mật, phủ dụcủa kẻ địch”, Phụng bảo thế. Và rồi, ngày tháng lại êm ả trôi. Tôi và Phụng khônglý gì đến tác giả những bó hoa pensée, hoặc những hộp kẹo, cứ thấy trong hộc bànlà thưởng thức, hoa thì đem về ép đầy trang sách! Rồi, mùa thi cũng đến! Cuốinăm Đệ Nhất, những bài hát chia tay thật buồn!
Danh sách trúng tuyển kỳ thi Tú tài hai được dán ở cổng trường trongnhững ngày hè. Kẻ đậu, người rớt. Bạn bè tôi, có người theo chồng về phương xa lập nghiệp, người gia nhập Quân đội, người vào Đại học. Những năm sau, trênđường đến giảng đường Viện Đại học Dalat, tôi vẫn gặp lại một số bạn năm ĐệNhất, nhắc chuyện xưa để ngậm ngùi với bao kỷ niệm…………
Mùa tựu trường năm nay, nơi quê hương thứ hai này, cùng những cơn gióchớm thu nhè nhẹ, cuốn theo những chiếc lá vàng lảo đảo rụng trên lối đi, nhìnnhững em bé nô nức đến trường, nói cười rôm rả, tôi lại nhớ đến thưở nào cònmài đuõng quần nơi ghế nhà trường. Thời gian như bóng câu qua cửa sổ. Nhữngngười bạn tôi, ai đã hy sinh trong cuộc chiến, ai nằm lại vĩnh viễn trong lòng biểnĐông, ai còn chịu kiếp sầu khổ nơi quê nhà, và ai đã vượt thoát đến miền đất hứatự do; ai thành công, ai thất bại trên mảnh đất quê hương thứ hai, tôi mảy maykhông đượcc tin tức! Chỉ có một niềm tin duy nhất, mong các bạn, dù ở phươngtrời nào nhớ về kỷ niệm thưở còn đi học, vẫn nở trên môi một nụ cười!
Lũ chúng tôi gồm năm đứa, từ năm trường Tiểu học khác nhau của thành phố cao nguyên sương mù Dalat nhút nhát, ngập ngừng bước qua cổng trường Bùi thị Xuân một sớm nắng ấm, gió nhẹ thổi hiu hiu…… Hôm ấy, ngày khai trường!
Chúng tôi, vì nhỏ con (so với các bạn ngồi cuối lớp, thấp hơn hẳn một cái đầu) nên chiếm lĩnh hai dãy bàn đầu, gần bục giảng. Riêng tôi, ngồi ngay đầu bàn dãy trong, nhìn lên bàn Giáo sư. Tình thân bắt đầu từ đây, và tai họa cũng bắt đầu từ đây! Tôi còn nhớ, sau hôm đầu làm quen với Giáo sư chủ nhiệm, chép bảng Nội quy nhà trường, bầu Trưởng lớp, Thủ quỉ, Trưởng ban kỹ luật, bích báo, văn nghệ, học tập vv…và vv…… Buổi học thứ hai, giờ đầu tiên với Giáo sư Chủ nhiệm, môn Vạn Vật. Đề bài được Cô viết lên bảng: Môn học: Động vật, bài học: Con khỉ. Sau đó, Cô quay xuống hỏi cả lớp: “Con khỉ có bao nhiêu cái răng?”. Không một tiếng động, không một cánh tay giơ lên. Tôi là người bị gọi đầu tiên! Nghĩ rằng khỉ là thủy tổ loài người, mà thường vẫn nghe nói người ta có 32 cái răng, tôi rụt rè lên tiếng : “Dạ thưa Cô, con khỉ có 32 cái răng.” Sau một tiếng thở dài nhẹ như gió thoảng, Cô gọi người bạn kế bên tôi. Và lần lượt, từ 32, đến 34, rồi 36 cái răng, bốn bàn đầu đều bị đứng chào cờ, và sau đó lãnh mỗi người 01 điểm! Hỡi ơi, dầu gì cũng là học sinh lãnh phần thưởng danh dự của trường Tiểu học Tây Hồ, vậy mà ngay giờ học đầu tiên đã phải chống gậy!!! Chưa hết, điểm 01 này còn kéo tôi xuống đến thứ hạng dưới trung bình của lớp, vì môn Vạn vật hệ số hai. Thế là cuối tháng đó, khi đem Thông tín bạ (sổ điểm hàng tháng) về nhà, tôi biết thân, leo lên giường nằm sẵn với cây chổi lông gà đặt kế bên! Tôi chưa nói rõ cho quí vị biết là Ba tôi rất thương con, luôn giúp đỡ, khuyến khích chị em tôi trong việc học.
Muốn sách vở gì Ba tôi cũng tìm mua hoặc mượn cho bằng được để chúng tôi đủ tài liệu học và tham khảo. Nhưng không bao giờ chúng tôi được phép sụt xuống dưới hàng thứ năm trong lớp. “Đồng bệnh tương lân”! Thế là chúng tôi năm đứa kết bạn cùng nhau, giờ học, giờ chơi gì cũng có nhau, và ganh đua (trong tinh thần học hỏi) trong thứ hạng xếp trong lớp. Tình thân phát triển theo ngày tháng, một đứa nghỉ học là bốn đứa còn lại buồn bã, băn khoăn, chỉ mong cho mau hết giờ để đến nhà thăm hỏi. Giờ Thể dục, giờ ra chơi, đi về chúng tôi luôn có nhau, nên trong trường ai cũng gọi “Nguõ long công chúa”! Riêng bọn chúng tôi tự đặt cho mình hỗn danh Nguõ quỉ; vì hơn ai hết, chúng tôi tự biết
mình nghịch ngầm. Như Tâm, đứa bạn ngồi đầu bàn (khoảng đường đi giữa lớp), nổi tiếng học giỏi và ngoan hiền, một hôm đặt trái cam ngay trên bàn, làm Giáo sư môn Công dân giáo dục phải nuốt nước miếng liên tục trong lúc giảng bài! Hay một buổi chiều mưa phùn bay lất phất, lớp chúng tôi đóng cửa, tắt đèn, rồi Phụng lên đứng trên bục giảng. Giáo sư mới về trường, dạy môn Văn hôm đó, đi ngang, thấy bóng người trên bục giảng (vì cửa có màn che) tưởng là lộn lớp nên đi luôn.
Một lát sau, Cô Tổng giám thị đi cùng Giáo sư Văn vào lớp, giới thiệu Giáo sư với lớp. Lúc đó, lớp thật là ngoan, gần ba mươi nữ sinh đứng thẳng, im lặng, chăm chú ngó lên bảng (ngoan nhất là hai bàn đầu!?). Cô Tổng giám thị nhìn qua chúng tôi, một cái nhìn dò hỏi, rồi đi ra, nhường lớp cho Giáo sư Văn. Hơn ai hết, Cô biết rõ lũ quỉ chúng tôi; và chúng tôi cũng không sợ ai bằng Cô. Rồi trong giờ Thể dục, vì Thầy dạy thấp người, nên Yến (một trong ngủ quỉ) cứ giả bộ đến gần hỏi Thầy điều này điều nọ, đứng nhón chân, cốt ý cho cao bằng Thầy. Bốn đứa tôi, quay mặt cười khúc khích. Sau đó, không hiểu ai méc lại, mà Cô Tổng Giám thị gọi năm đứa lên khiển trách, và giờ Thể dục sau, Thầy bắt chúng tôi chạy ba vòng sân sau trường! (Eo ơi, một vòng là khoảng gần 1km!). Và chúng tôi, từ đó không dám phá trong giờ Thể dục nữa. (Tôi xin mở một ngoặc đơn ở đây để cám ơn Mẹ tôi, người lúc nào cũng bắt chúng tôi ăn no, mặc ấm trước khi bước ra khỏi nhà. Nhờ vậy mà tôi mới hoàn thành ba vòng chạy quanh sân trường Bùi thị Xuân một cách mỹ mãn.)
Những ngày đầu năm học Đệ thất, từ Tiểu học lên bậc Trung học, phải mặc áo dài khi đi học quả là một cực hình đối với chúng tôi. Nào là khi ngồi phải nhẹ nhàng vén tà áo phía sau phủ lên phía trước đùi để giữ áo khỏi nhăn, nào là đi đứng phải khoan thai, không được chạy nhảy lung tung, nào là tóc phải thắt bím hai bên cột nơ màu cho đẹp, nếu không cũng phải cột nhỏng thành đuôi ngựa cột nơ, không được để xỏa, vướng víu trong giờ học, nào là vv… và vv…… Ngũ quỉ nhà không gần nhau, một đứa ở Phan Đình Phùng, một đứa đường Duy Tân, một đứa Hoàng Diệu, một đứa ở Trại Hầm, còn nhà tôi mãi tận
Chi Lăng, (vì Ba tôi lúc ấy công tác tại Trường Võ Bị Quốc gia Dalat). Nhưng bao giờ cũng bước vào cổng trường cùng một lúc. Ai đến trước phải đợi. Có những hôm trời lạnh cóng tay, mũi cứ đỏ lên, vậy mà chúng tôi cũng đứng co ro dưới cổng trường, cặp ôm ngang ngực che lạnh, đợi đủ túc số mới vào lớp. Hay những ngày trời mưa ướt át, núp dưới mái hiên nhà Ông Cai trường, ngóng ra cổng, chờ những đứa bạn thân. Những giờ ra chơi, hay không có lớp, chúng tôi thường kéo nhau ra sân sau ôn bài, tán gẫu, hoặc vào nhà Ông Cai nhấm nháp kẹo bánh. Cũng có những hôm, chúng tôi đem theo vợt và trái cầu lông để chơi, hoặc cột túm hai vạt áo dài, xé tập làm kiện đá như con trai! Ôi! Kỷ niệm thưở học trò, nói làm sao cho hết!
Thắm thoát mà chúng tôi đã hết những năm Trung học Đệ nhất cấp.
Tình thân giữa ngủ quỉ bắt đầu lung lay khi hai đứa, tôi và Ngọc, ghi tên theo ban B (ban Toán), Tâm và Yến thì học ban A (Lý hóa, Vạn vật), còn Phụng chọn ban C (ban Văn chương, sinh ngữ). Tuy cũng cùng dưới mái trường, nhưng chúng tôi linh cảm rồi sẽ phải rời xa vì những giờ học khác nhau. Thiên bất dung gian, cả trường chỉ có hai đứa tôi ghi tên học ban B, nên năm đó, nhà trường gởi chúng tôi sang học bên trường Nam Trần Hưng Đạo! Cứ nghĩ đến hơn một ngàn cặp mắt nhìn mình những hôm thứ hai chào cờ, đi ra đi vào chỉ có hai “cánh hoa” lạc giữa “rừng gươm”, tôi không đủ can đảm, nên xin rút tên sang ban A. Nhưng hai lớp A đã đủ sỉ số, nên tôi đành phải bước vào lớp C cùng với Phụng! Ngọc gan hơn tôi, vẫn tiếp tục giữ vững ý chí theo học ban Toán. Từ ngày sang trường Nam, chúng tôi không còn được tin tức gì của Ngọc nữa. Sau 30/4/1975, có tin cho biết Ngọc đã sang định cư tại Cali. Bây giờ, ngủ quỉ chỉ còn lại tứ quỉ! Và một biến cố nữa xảy đến, làm chúng tôi tan đàn, rã đám!!! Số là bên trường Nam Trung học Trần Hưng Đạo, chỉ có mười nam sinh ghi tên theo học ban C, thế là nhà trường gởi sang trường Nữ Bùi thị Xuân. Hôm đầu tiên ,mười vị khách đến lớp, trông sao mà hiền lành, nhút nhát lạ! Vị nào cũng áo chemise trắng, áo lạnh xanh, quần màu xanh sẫm, giày đen, tay xách cặp, đi với nhau, cứ như là sợ tách rời là sẽ bị lũcon gái ăn thịt???!!! Trước khi Cô Tổng Giám thị dắt bọn nam sinh vào lớp, Giáo sư chủ nhiệm đã thông báo cho chúng tôi biết ngay từ đầu buổi học, và quí vị cóbiết chuyện gì xảy ra sau đó?! Hết giờ học đầu, chúng tôi tự động kéo bàn sát lại nhau, sát lên phía bục giảng, chỉ chừa hai dãy bàn dưới trống trơn, trơ trọi, ý là để dành cho bọn con trai. Khi Cô Tổng Giám thị dẫn lũ nam sinh vào lớp, chúng tôibiết Cô đã phải nhịn cười, làm mặt giận, bắt chúng tôi kê bàn ghế lại bình thường.
Tuần lễ đầu trôi qua êm ả, mười “cánh gươm” hiền như mười con mèo con bị bao vây giữa ngàn “cánh hoa rừng”! Chỉ có một tai nạn nho nhỏ (hay đúng hơn là tai họa cho riêng tôi!), trong mười vị anh hùng đó có một vị trùng tên với tôi, chỉ khác chữ lót. Thế là vài hôm sau, có tên nào tinh nghịch đã viết lên bảng mấy câu thơ :
Nga nga lưỡng nga nga,
Lơ lững giữa trời xa
Cùng nhìn về một phía,
Nga nga hỡi nga nga…
Tôi đâm ra ghét cay ghét đắng anh chàng tên Hoàng Nga, dù anh chàng cũng thuộc loại con nhà giàu, học khá, sáng sủa, đẹp trai! (Sau này, tôi còn được biết anh chàng là anh của nhỏ bạn học cùng lớp với em tôi). Nhưng chỉ sau một tuần dọ dẫm tình hình, mười tay quái kiệt bắt đầu trổ tài! Lớp tôi bầu lại Ban chấp hành, và phần lớn các “chức vụ” đều lọt vào tay các đấng nam nhi, chỉ có Trưởng lớp, Thủ quỉ và Trưởng ban Học tập là còn thuộc phe kẹp tóc. Tôi và Phụng tức ấm ức, vì không hiểu sao các bạn trong lớp lại để cho phe địch giành thắng lợi?!
Tai họa vẫn chưa hết đâu quí vị ạ! Nàng nào đứng trò chuyện với các vị mày râu giờ ra chơi trong sân trường là bị Cô Tổng Giám thị gọi lên văn phòng cảnh cáo ngay! Còn những hoa pensée, vài viên kẹo, vài cái bánh vẫn thường lén lút xuất hiện trong hộc bàn các nàng từ những bàn tay vô danh!!! Rồi tờ bích báo đầu tiên của lớp được hình thành. Đây cũng là công của anh chàng trưởng ban bích báo lớp. Người hùng còn thừa thắng xông lên, tuyên bố mỗi tháng sẽ ra một tờ bích báo. Kể về hình thức, phải nói là tuyệt hảo (dĩ nhiên là xét về mặt học trò thôi!) vì trong mười chàng, có một chàng “hoa tay thảo những nét”, tựa bài và hình vẽ minh họa rất đẹp. Cũng như tên của tờ bích báo, hai chữ Tiến lên được ghép từ những mảnh thủy tinh, phản chiếu ánh sáng đủ màu trông rất đẹp mắt.
Và hôm ăn mừng sự thành công của tờ bích báo cũng là một thảm họa, thưa quí vị! Giờ nghỉ, anh chàng Trưởng ban bích báo dắt toàn bộ ban biên tập ra nhà Ông Cai trường, đải mỗi người một tô bún riêu. Là thủ quỉ của lớp, tôi phải đi theo để chi tiền. Vả lại, tôi cũng có bài đóng góp trên trang bích báo, dĩ nhiên cũng nằm trong danh sách được mời. Vì số khách đông ngoài dự tính (Bà Caitrường hôm đó chắc trúng mối) nên bữa ăn được dọn ra hơi trễ. Đã sang giờ học khác, tôi định trở lại lớp (vì dù sao tôi cũng là một trong những học sinh giỏi, gương mẫu của lớp!), nhưng mọi người níu lại với đủ mọi lý do, nào là không sao đâu, giờ này của Giáo sư chủ nhiệm, Cô sẽ thông cảm, không phạt đâu, nào là tôiđi rồi lấy ai chi tiền, nào là vv và vv…… Nghe xuôi tai; hơn nữa, bún riêu là món tôi thích, mà Mẹ tôi (người miền Nam) không bao giờ nấu, tôi ở nán lại! Tiệc đang nửa chừng, không hiểu ai méc, Cô Tổng Giám thị xuống bắt quả tang toàn bộ banbiên tập bích báo Đệ tam C đang sì sà, sì sụp mỗi người một tô bún riêu. Cô ralệnh về lớp ngay (dĩ nhiên là sau khi thanh toán sòng phẳng với Bà cai). Về đếnlớp, cả bọn bị phạt quì lên ghế từ đó đến cuối giờ (Ôi, hình phạt thật dã man!).
Cũng may là Giáo sư chủ nhiệm không cho giờ cấm túc, cũng không ghi trong Họcbạ, vì tờ Bích báo lần đó được xếp nhất trường! Hú vía! Từ đó, Phụng giữ riết lấytôi không rời nửa bước, để tránh “tình trạng dại dột, nghe lời đường mật, phủ dụcủa kẻ địch”, Phụng bảo thế. Và rồi, ngày tháng lại êm ả trôi. Tôi và Phụng khônglý gì đến tác giả những bó hoa pensée, hoặc những hộp kẹo, cứ thấy trong hộc bànlà thưởng thức, hoa thì đem về ép đầy trang sách! Rồi, mùa thi cũng đến! Cuốinăm Đệ Nhất, những bài hát chia tay thật buồn!
Danh sách trúng tuyển kỳ thi Tú tài hai được dán ở cổng trường trongnhững ngày hè. Kẻ đậu, người rớt. Bạn bè tôi, có người theo chồng về phương xa lập nghiệp, người gia nhập Quân đội, người vào Đại học. Những năm sau, trênđường đến giảng đường Viện Đại học Dalat, tôi vẫn gặp lại một số bạn năm ĐệNhất, nhắc chuyện xưa để ngậm ngùi với bao kỷ niệm…………
Mùa tựu trường năm nay, nơi quê hương thứ hai này, cùng những cơn gióchớm thu nhè nhẹ, cuốn theo những chiếc lá vàng lảo đảo rụng trên lối đi, nhìnnhững em bé nô nức đến trường, nói cười rôm rả, tôi lại nhớ đến thưở nào cònmài đuõng quần nơi ghế nhà trường. Thời gian như bóng câu qua cửa sổ. Nhữngngười bạn tôi, ai đã hy sinh trong cuộc chiến, ai nằm lại vĩnh viễn trong lòng biểnĐông, ai còn chịu kiếp sầu khổ nơi quê nhà, và ai đã vượt thoát đến miền đất hứatự do; ai thành công, ai thất bại trên mảnh đất quê hương thứ hai, tôi mảy maykhông đượcc tin tức! Chỉ có một niềm tin duy nhất, mong các bạn, dù ở phươngtrời nào nhớ về kỷ niệm thưở còn đi học, vẫn nở trên môi một nụ cười!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét